Một số thay đổi của Luật Đầu tư (13/07/2015)

Quốc Hội đã chính thức thông qua Luật Đầu tư sửa đổi với 7 chương, 76 điều, quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài; luật có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015 thay thế cho Luật đầu tư 2005. Nhiều điểm mới của Luật đầu tư 2014 ra đời đã góp phần quan trọng tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng thu hút đầu tư, xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, đảm bảo quyền lợi của các chủ thể trong hoạt động đầu tư và đem lại lợi ích cao nhất cho sự phát triển kinh tế – xã hội

Quốc Hội đã chính thức thông qua Luật Đầu tư sửa đổi với 7 chương, 76 điều, quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài; luật có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015 thay thế cho Luật đầu tư 2005. Nhiều điểm mới của Luật đầu tư 2014 ra đời đã góp phần quan trọng tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng thu hút đầu tư, xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, đảm bảo quyền lợi của các chủ thể trong hoạt động đầu tư và đem lại lợi ích cao nhất cho sự phát triển kinh tế – xã hội.

Các thay đổi đáng chú ý:

I. ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC

ü  Tập hợp cụ thể Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong Luật theo phương pháp loại trừ: từ việc nhà đầu tư chỉ được quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật cho phép sang nguyên tắc được tự do đầu tư tất cả các ngành, nghề mà luật này không cấm hoặc quy định phải có điều kiện.

Danh mục này áp dụng chung cho tất cả các nhà đầu tư, thay thế cho các văn bản quy phạm pháp luật có quy định tương tự trước đây, cụ thể như sau:

–       Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh gồm 06 ngành nghề quy định tại Điều 6 và các Phụ lục 1, 3 và 3 của Luật;

–       Danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện gồm 267 ngành, nghề được quy định tại Phụ lục 4 của Luật. Các điều kiện c được quy định chi tiết tại Luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

ü  Củng cố, hoàn thiện cơ chế bảo đảm đầu tư phù hợp với quy định của Hiến pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể:

–       Cập nhật các quy định về việc Nhà nước bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư và cam kết bồi thường thỏa đáng, công bằng trong trường hợp trưng thu, quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư phù hợp với quy định của Hiến pháp;

–       Hoàn thiện quy định về việc Nhà nước bảo đảm đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư phù hợp với cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế;

–       Hoàn thiện quy định về việc áp dụng nguyên tắc không hồi tố trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật thay đổi làm ảnh hưởng bất lợi đến ưu đãi đầu tư đã áp dụng đối với nhà đầu tư.

ü  Làm rõ việc áp dụng pháp luật đối với Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong trường hợp thành lập mới doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần, thực hiện dự án đầu tư đối với các tổ chức kinh tế.

–       Nếu tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thuộc một trong các trường hợp sau:

·         Có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trên 51% vốn điều lệ hoặc công ty hợp danh có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài.

·         Có nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nêu trên nắm giữ trên 51% vốn điều lệ.

ð  Áp dụng điều kiện và thủ tục như nhà đầu tư nước ngoài.

–       Các trường hợp còn lại:

ð  Áp dụng như nhà đầu tư trong nước.
II. ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI

ü  Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo hình thức mua, bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác và đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài mà không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.

ü  Hoàn thiện các quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài:

–       Luật khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được thực hiện các hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế đất nước;

–       Hoạt động đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ các quy định của Luật này, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;

–       Bổ sung quy định nhằm xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của nhà đầu tư cũng như cơ quan quản lý trong việc quyết định đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài:

o   Nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư, tự huy định trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc huy động các nguồn vốn (bao gồm cả ngoại tệ) để thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài;

o   Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của nhà đầu tư cũng như cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước trong việc quyết định đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài.

ü  Bổ sung một số quy định về thủ tục triển khai hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm tạo cơ chế giám sát và quản lý nguồn vốn chuyển ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư.

III. THAY ĐỔI KHÁC

ü  Quy định về thủ tục thực hiện dự án đầu tư; thành lập tổ chức kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài;

ü  Thủ tục góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài;

ü  Quy định những trường hợp tạm ngừng, giãn tiến độ đầu tư, chấm dứt hoạt động đầu tư, thu hồi, thanh lý hoạt động đầu tư;

ü  Bổ sung quy định về ký quỹ bảo đảm thực hiện dự án đầu tư và hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về đầu tư.

ü  Hoàn thiện các quy định của Luật Đầu tư hiện hành về:

–     Ngành, nghề ưu đãi đầu tư;

–     Nguyên tắc, điều kiện áp dụng ưu đãi: tập trung vào các ngành sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, dự án sản xuất có quy mô lớn, dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng nhiều lao động, dự án sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, dự án thực hiện trong các lĩnh vực xã hội hóa đầu tư(y tế, giáo dụng, dạy nghề, văn hóa…);

–     Luật không quy định ưu đãi đầu tư theo địa bàn đối với các dự án khai thác khoáng sản; dự án sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phù hợp với quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt

ð  Tránh tình trạng đầu tư tràn lan theo địa bàn.

ü  Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính gắn liền với việc nâng cao trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc triển khai thực hiện dự án đầu tư, bao gồm:

–       Bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với tất cả các dự án đầu tư trong nước;

–       Đơn giản hóa hồ sơ, trình tự, thủ tục và rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài (từ 45 ngày theo Luật Đầu tư hiện hành xuống còn 15 ngày).

ü  Bổ sung, hoàn thiện một số quy định nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dự án đầu tư, như:

–       Bổ sung quy định về bảo đảm nghĩa vụ thực hiện dự án đầu tư dưới hình thức ký quỹ;

–       Bổ sung quy định về giám định chất lượng máy móc, thiết bị, công nghệ nhập khẩu để thực hiện dự án đầu tư

–       Hoàn thiện các quy định về chuyển nhượng dự án đầu tư, giãn tiến độ đầu tư, tạm ngừng hoạt động đầu tư, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư… theo hướng xác định cụ thể điều kiện, thủ tục thực hiện các hoạt động này cũng như trách nhiệm của nhà đầu tư và thẩm quyền giải quyết của cơ quan quản lý ở địa phương.

ü  Hoàn thiện chế độ phân cấp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư bằng cách bổ sung quy định về thẩm quyền, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư của từng tổ chức, cụ thể như sau:

–       Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: Quy định dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận đầu tư của Quốc hội và Thủ tướng Chính hủ trên cơ sở kế thừa, luật hóa và hoàn thiện quy định tương ứng của Nghị quyết số 49/2010/QH12 và quy định của Nghị định số 108/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư;

–       Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với các dự án được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất (điểm mới trong nội dung này là chuẩn hóa và đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với một số dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Theo đó, cơ quan quản lý đầu tư thực hiện chủ trương đầu tư đồng thời với việc xem xét giới thiệu địa điểm và thẩm tra nhu cầu sử dụng đất. Việc áp dụng đồng thời các thủ tục nêu trên sẽ giúp cắt giảm đáng kể thời gian thực hiện thủ tục hành chính do nhà đầu tư không phải tiến hành lần lượt từng thủ tục liên quan đến việc sử dụng đất như quy định hiện hành.

–       Ngoài ra, Luật đã bổ sung quy định về trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế trong quản lý hoạt động đầu tư, đồng thời hoàn thiện các quy định về chế độ báo cáo đầu tư, giám sát và đánh giá hoạt động đầu tư.

Nhã Nguyên – nghiên cứu và tổng hợp

Ø  Tập tin đính kèm:

Luật Đầu tư số 67/2014/QH13

Tập tin đính kèm:

string(19) "2025-09-06 00:00:00"